Chuyện chàng Vương Bột
Ngày xửa ngày xưa, ở bên xứ tàu, có một công tử họ Vương. Nghe thiên hạ đồn rằng Vương công tử mặt hoa da phấn, tính tình hiền lành, hiền như bột nên được gọi là Vương Bột. Lại nghe nói công tử Bột nổi danh hay chữ, chuyên làm thơ phú ca tụng mỹ nhân hay phong cảnh hữu tình. Ngày xưa, chưa có facebook nên người ta mới phải làm thế.
Công tử Bột muốn đi tới tỉnh Giang Tây, nơi có nhiều nhà cao cửa rộng, đặc biệt là cái lầu Đằng Vương cao đẹp nhất thời bấy giờ vừa mới xây xong. Trong dịp khánh thành, chắc chắn là sẽ có rất nhiều tài tử giai nhân đến dự. Mới nghĩ tới đó, công tử Bột đã thèm chảy nước miếng. Ngoài ra, trong lễ khánh thành còn có chương trình thi làm thơ viết phú, bình văn, rất chi là hoành tráng.
Công tử Bột nhà ta rất muốn đi để khoe tài thơ phú, nhưng đường sá xa xôi, dẫu có tiền thì cũng chưa chắc đi kịp. Công tử chim cú quá nên ngồi khóc. Khóc một hồi thì có ông Bụt hiện ra, Bụt thương tình bảo Bột làm một cái buồm thật lớn, Bụt sẽ thổi gió đưa đi. Đó là chuyện ngày xưa, bây giờ đi Mỹ vấn đề khó nhất là nhờ Bụt giúp cho cái visa, visa nhỏ như lòng bàn tay nhưng đưa đi xa và nhanh hơn cánh buồm gấp nhiều lần. Cũng vì cái sự tích công tử Bột may mắn được Bụt nổi gió đưa đi thăm lầu Đằng Vương, mà thành ngữ “thuận buồm xuôi gió” mới ra đời.
Sách vở ngày xưa thất truyền nên không rõ công tử Bột có bị say sóng hay không, nhưng theo em đoán chắc cũng te tua như em đi chuyến Tuy Phong vừa rồi.
Vừa lên tới bờ, công tử Bột ngửa mặt lên trời kêu lớn “Sống rồi” ba lần. Sau đó, Vương Bột nhà ta hăng hái đến Đằng Vương Các xin tham gia làm thơ, viết phú. Bàng Giải đô đốc thấy công tử còn con nít nên tỏ ý coi thường, nhưng vẫn miễn cưỡng cấp giấy bút cho công tử và ngầm cho người theo dõi. Đó là trong sách vở chép như vậy, chứ theo suy đoán của em thì Vương công tử tuy tên là Bột, hình trong giấy báo thi thì trắng bóc, nhưng mặt mày da dẻ đen thui, loang lỗ, mới nhìn cứ tưởng là ISIS, ai mà chẳng nghi.
Vương công tử vô phòng thi, viết được câu nào là có người báo về ngay cho Bàng Giải đô đốc câu đó, thì em cũng theo sách vở mà thuật lại thôi chứ ngày xưa làm gì có điện thoại di động, với facebook hay zalo mà làm được như thế, chẳng lẽ lại chạy tới chạy lui như thoi đưa?
Mới được mấy câu đầu, Bàng Giải đã ngạc nhiên vì lời lẽ già dặn. Đến hai câu dưới đây thì ông vô cùng khâm phục.
Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc
Nghĩa là
Ráng chiều với cò lẻ cùng bay,
Nước thu cùng trời dài một sắc
Bài của họ Vương đặc sắc hơn tất cả. Từ đó, danh càng vang dậy khắp nơi. Bài phú Đằng Vương Các được nhiều chép về ngâm nga đọc. Đại loại cũng như bây giờ đem ảnh bốt lên các diễn đàn để kiếm thanks với nominations vậy đó.
Ngày xưa là như vậy, người ta hay coi thường những người trẻ tuổi, cho rằng hán chưa đủ rộng, nho chưa đủ thâm mà đã bày đặt múa bút chốn đông người. Còn bây giờ thời buổi đảo điên, nhiều người lớp trẻ lại hay đâm chọt những người lớn tuổi, cho rằng họ đã mắt mờ tay yếu chân run, ảnh ọt nhoè nhoẹt hết cả. Ngược lại, những người có tuổi lại cho lởp trẻ là chưa biết thưởng thức. Từ chuyện văn bài của công tử Bột, mới hay rằng tài không phân biệt tuổi, và chuyện mâu thuẫn trẻ già cũng đã có từ ngàn xưa.
Bài phú Đằng Vương Các rất dài, dùng nhiều điển tích khó nhớ. Vì thế để không bị chê là kém tài, không thưởng thức nổi và không thuộc nổi bài phú, các nho sĩ đã nghĩ ra một sáng kiến là chỉ cần nhớ 5 câu thôi là đã có thể hù thiên hạ được rồi.
Câu đầu tiên (có 2 vế đối nhau) mà Ducko đã nhắc tới là Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc.
Bốn câu còn lại như sau
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
Các trung đế tử kim hà tại ?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.
Nghĩa là
In đầm, mây vẩn vơ trôi.
Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu.
Đằng vương trong gác giờ đâu ?
Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.
Các bác có để ý thấy cái thâm nho của chàng Vương Bột không, chàng vì giận đô đốc Bàng Giải mà đã đá giò lái vào bác Tinh Hoàn, đại ca của bạn Kua.
Nhân đây em xin đính chính là Bàng Giải theo tự điển Thiều Chửu có nghĩa là con cua, bác Hai không nên liên tưởng tới bạn Kua nhà mình. Con cua nó có 8 cẳng 2 càng, bạn Kua không nhiều cẳng đến thế.
Sau khi làm một cú PR hoành tráng ở Đằng Vương Các, công tử Bột nổi tiếng như cồn. Nhưng chờ mãi chẳng có ai xây thêm lầu nên công tử Bột bèn lều chõng đi thi rồi ra làm quan. Sử sách không thấy chép nhưng theo điều tra riêng của em thì trong thời gian làm quan, công tử Bột vướng vào một vụ xì căng đan ái tình, hậu quả là cha của công tử bị kỷ luật, điều đi làm quan ở xứ Giao Chỉ xa xôi và nguy hiểm vì các cuộc khởi nghĩa liên miên của dân Bách Việt.
Sau lần được Bụt giúp cho tí gió, công từ Bột cứ tưởng đi biển là ngon, bèn thuê tàu qua Giao Chỉ thăm cha. Lúc hợp đồng nghe đâu được hứa hẹn tàu to, buồm lớn; khi đến nơi thì được giao cho một chiếc tàu đánh cá bé xíu. Trên đường đi qua Việt Nam, vì không biết tránh các luồng tàu lớn nên chiếc ghe đánh cá của Vương công tử đã bị tàu lạ đâm phải. Tàu lạ bỏ chạy luôn mà không dừng lại cứu người nên công tử Bột sau một hồi ngâm nước, thân xác rã rời, hồn lang thang trên bãi biển.
Vùng biển nơi Vương Bột bị chết chìm được đặt tên là biển Bột Hải (Bohai Sea)
Chuyện Bàng Giải Đại nhân
Lại nói về Bàng Giải đô đốc, ai cũng tưởng rằng ông ta có quan hệ huyết thống với Bàng Quang mong manh dễ vỡ. Thật ra mối quan hệ đó như thế nào thì em không biết. Từ điển Thiều Chửu giảng nghĩa rằng Bàng Giải trong tiếng Nôm là con cua.
Bàng Giải đô đốc là người chịu trách nhiệm xây cái Đằng Vương Các này, nhân dịp khánh thành, ông muốn khoe cái tài xây cất của mình, nhân tiện khoe luôn thằng con rể văn hay chữ tốt nên mới bất ngờ trước văn tài của công tử Bột. Nhân đây em xin chú thích luôn, những người nổi tiếng thường có nhiều tên, chỉ có những người cùng đinh mạt hạng mới chỉ có một tên, ví dụ như Chí Phèo. Vì thế có nhiều nguồn tài liệu nhắc tới đô đốc Diêm thì các bác cũng đừng lấy làm ngạc nhiên nhé. Bàng Quang đại nhân cũng là người nổi tiếng, vì thế cũng có nhiều tên, và cũng thường được nhắc tới một cách kính trọng là Tinh Hoàn đại nhân.
Sau cái chết của công tử Bột, đại nhân trở nên buồn bã khác thường. Phần vì hối hận vì ngày xưa đã coi thường công tử trong dịp khai trương Đằng Vương Các, cũng vì cái suy nghĩ “khôn đâu đến trẻ, khoẻ đâu đến già” mà ra cả. Phần nữa vì đại nhân dù là con nhà võ, làm đến chức đô đốc nhưng vẫn biết võ vẽ thưởng thức văn thơ nên cũng có con mắt liên tài. Đại nhân thầm nghĩ rằng công tử Bột dù trẻ mà đã khôn; rồi đại nhân cười một mình, cũng như mình đây, tuy già mà vẫn khỏe, lại dai sức nữa chứ. Từ khi công tử Bột trở nên nổi tiếng, đại nhân cũng đã nhận nhiều lời ong tiếng ve, dè bỉu cách xử sự của ông. Ai mà biết được cậu bé mới 14 tuổi, tên là Bột nhưng mặt đen thui loang lỗ như thế lại biết làm thơ. Tuy thế, ông cũng mừng là công tử không để bụng mà còn làm thân với ông nữa.
Thật ra mà nói, công tử Bột làm thân với ông cũng phải thôi. Ngoài cái chức đô đốc ra, ông còn có nhiều mối thâm tình với nhà Vua và hoàng tộc. Hơn nữa, ông còn mấy đứa con gái đẹp như tiên. Trong khi đó, công tử Bột dù văn hay chữ tốt nhưng sự nghiệp công danh vẫn chưa có gì, cần có thế lực để dựa dẫm trên đường quan lộ nhiều cạm bẫy. Đó là chưa kể công tử đã mấy lần nhìn theo con gái Bàng Giải đại nhân, tròng mắt như muốn rớt ra ngoài. Công tử còn đánh tiếng muốn xin Bàng Giải nhị tiểu thư ngồi làm mẫu cho công tử làm thơ. Mới biết rằng cái nghề làm người mẫu cũng đã có từ xa xưa vậy.
Chuyến đi định mệnh
Rồi một ngày nọ, Bàng Giải đại nhân quyết định lên đường đi Giao Chỉ thăm Vương Phúc Trĩ, là cha của công tử Bột, đang làm quan ở đó. Theo chính sử thì đại nhân đi thăm bạn cũ, như một cách tạ lỗi với công tử Bột, để lương tâm bớt cắn rứt. Nhưng theo dã sử thì thật ra đại nhân đi trốn sự kềm kẹp của Bàng Giải phu nhân.
Rút kinh nghiệm thương đau của công tử Bột, đại nhân chọn đường bộ. Sau nhiều tháng ròng rã, đoàn xe của đại nhân cũng đến được An Nam đô hộ phủ. Vậy mà bạn Kua cứ lo lắng là đi mãi mà không đến được Hà Nội.
Bàng Giải đại nhân được cha của công tử Bột là Vương Phúc Trĩ đón tiếp niềm nở, như đã quen biết lâu ngày dù hai bên chỉ “văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”, nghĩa là nghe tiếng nhau chứ chưa thật sự biết mặt nhau. Vương Phúc Trĩ tha hương đã lâu, lại buồn chuyện con chết trẻ, nên xem việc gặp Bàng Giải đại nhân như là ngộ cố tri vậy.
Họ Vương sang xứ An Nam lo về việc quân cơ, lại gặp đại nhân cũng là đương triều đô đốc, cả hai đều yêu thích văn chương nên chẳng bao lâu đã trở nên tương đắc. Ban ngày, họ đi thị sát thành lũy, đôn đốc quân lính tập luyện, đặc biệt là kiểm tra kho lương thảo. Ban đêm, họ uống rượu ngâm thơ, cuộc sống xa nhà nhưng cũng sung sướng. Sướng nhất là thoát khỏi sự kềm kẹp của Bàng Giải phu nhân, họ có thể đi làm về trễ bao nhiêu cũng được; thức xem hoa nở, thức chờ trăng lên khuya mấy cũng không sao.
Vào thời đó, nhà Đường đang đô hộ xứ An Nam. Dân Việt lúc đó bị bóc lột hết sức nặng nề. Hàng năm quan Kinh Lược Sứ phải có trách nhiệm cống nạp về tàu nhiều sản vật quý như ngà voi, đồi mồi, tơ lụa vv… Gánh nặng này các quan đô hộ đổ lên đầu dân xứ An Nam. Ngoài ra, còn sưu cao thuế nặng, vì thế các cuộc khởi nghĩa của dân Bách Việt nổi lên liên miên, Phúc Trĩ phải chống trả vô cùng vất vả.
Đã nhiều lần, quan quân nhà Đường bị vây hãm trong thành, phải trông cậy vào kho lương thực dự trữ, đôi khi phải giết cả chiến mã mà ăn cho đỡ đói. Rau quả là những thứ phải mua hàng ngày từ dân An Nam, vì thời đó chưa có tủ lạnh, nên khi bị vây hãm là coi như tèo. Những khi như thế, Phúc Trĩ không dám rời yên ngựa, mình luôn mang giáp trụ.
Hậu quả của nhiều năm chinh chiến, ăn uống kham khổ thiếu rau xanh, thường xuyên cưỡi ngựa là Phúc Trĩ bị bệnh, hình như là tâm bệnh vì không thấy ông ta tiết lộ cùng ai, nhưng cũng có thể là thân bệnh, vì thấy ông ta lên xuống ngựa rất khó khăn.
Thói thường, người ta lấy tên người nổi tiếng để đặt tên cho bệnh tật, vi trùng, vv… Ví dụ như sau khi Achilles bị cắt gân chân thì cái gân đó mang tên Achilles luôn. Vì thế, em cũng đoán tên của Vương huyện lệnh cũng được trưng dụng để đặt cho bệnh mà ông ta mắc phải. Đó chỉ là võ đoán của một kẻ hậu sinh mà thôi, chuyện này sử sách không có chép, các bác cũng nên dè dặt.
Vương huyện lệnh làm quan to, những khi thành bị vây thì chỉ ăn tinh bột và thịt mà thôi, chẳng có tí rau nào. Muốn có rau thì phải ra ngoài thành mà mua, đã bị vây rồi thì sao ra được. Trong kho lương thì có ngũ cốc, thịt khô, toàn là tinh bột với thịt, hỏi sao mà không bị trĩ.
Thành Tống Bình thất thủ
Quan đô hộ mới là Lưu Diên Hựu là người tham tàn. Hắn tăng thuế lên gấp đôi, đánh đập những người thiếu thuế. Lòng dân vô cùng oán hận vì sự cai trị hà khắc. Một hào trưởng người Việt là Lý Tự Tiên âm thầm chiêu tập binh mã chuẩn bị khởi nghĩa, nhưng chẳng may việc lớn bị bại lộ, Lưu Diên Hựu đem quân đàn áp, Lý Tự Tiên anh dũng hy sinh.
Một trong những tướng tài của Lý Tự Tiên là Đinh Kiên may mắn thoát được vòng vây, và tiếp tục lãnh đạo nghĩa quân. Đinh Kiên lập mưu nhử quân Lưu Diên Hựu ra khỏi thành rồi tấn công thọc sườn, chia đội hình địch quân ra làm hai. Một nửa chạy vào thành, nửa kia bị bao vây ngoài thành, hai nửa không liên lạc hay ứng cứu gì được cho nhau.
Vương huyện lệnh thất trận sợ mất mật, nhanh chân chạy tót vô thành, hô hào quân lính đóng cổng thành cố thủ, còn bản thân mình thì chạy trốn trong kho quân lương. Bàng Giải đại nhân cũng kinh hồn bạt vía, vứt mũ cánh chuồn, cởi áo ném đai, chui vào nơi chứa cỏ cho ngựa, ngồi run cầm cập.
Rồi những khi thành bị vây, Vương huyện lệnh mình không dám rời giáp trụ, mông không dám rời yên cương. Trong tình cảnh đó, các nhu cầu của cơ thể chắc chắn là phải nín nhịn rồi. Mình mang giáp trụ mà chui vào toa lét rất là khó khăn, ngồi trên lưng ngựa thì chắc chắn là mission impossible rồi. Mà mỗi lần thành bị vây có phải là ngày một ngày hai đâu, cả tháng trời ấy chứ. Nín nhịn như thế mà không bị trĩ thì có hoạ là thánh là thần chứ không phải là người.
Nghĩa quân, dù chỉ là những nông dân chân đất, chỉ được trang bị cuốc thuổng gậy gộc nhưng với lòng căm thù bọn giặc xâm lược, đã tràn lên tiêu diệt toàn bộ đám quân tàu chậm chân, bị bỏ rơi ngoài thành. Thanh toán xong bọn này, tướng Đinh Kiến cùng nghĩa quân thừa thắng xông lên, tiến công luôn An Nam đô hộ phủ, bên trong thành Tống Bình. Quân tàu dưới quyền Lưu Diên Hựu hoảng sợ vứt vũ khí chạy trốn. Tướng Đinh Kiến cùng nghĩa quân phá được thành và chém đầu Lưu Diên Hựu, rửa hờn cho chủ tướng Lý Tự Tiên cùng biết bao dân lành Bách Việt.
Trong kho lương thảo, Vương huyện lệnh thì trốn bên lương, chui đầu vào một bao bột mì như đà điểu giấu đầu dưới cát; Bàng Giải đại nhân thì núp bên thảo, phủ cỏ khô lên người nằm in thin thít, không động đậy tay chân.
Trong khi nằm dưới đống cỏ khô, Bàng Giải đại nhân sợ cóng cả chân lẫn càng, than thầm trong bụng, phen này là chết chắc, Bụt có hiện ra cũng không cứu được. Cứ tưởng qua An Nam là yên không ngờ tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, hic hic. Đại nhân chưa kịp thú nhận một nguyên do khác, khiến đại nhân phải lặn lội đường xa vạn dặm xuống phương Nam, đó là đại nhân sợ phải chịu nhục, phải chết dưới tay một người đàn bà. Xin các bác đừng nghi oan cho Bàng Giải phu nhân mà tội, bà này chỉ kềm kẹp ngắt nhéo chồng thôi, chứ trong bụng vẫn một mực thương chồng.
Người đàn bà khiến BGĐN phải bỏ của chạy lấy người chính là Võ Tắc Thiên đầy quyền lực, nổi tiếng mưu mô và tàn ác. Thái tử còn bị Võ hậu hành quyết, đại thần Thượng Quan Nghi còn bị chém bay đầu, huống gì một đô đốc như Bàng Giải.
Thôi thì trước sau gì cũng chết, chết dưới tay dân Việt thì vợ con còn được hưởng tiêu chuẩn liệt sĩ, chứ chết vì mưu mô Võ hậu thì nhà tan cửa nát, vợ con cũng bị liên lụy.
Từ khi Võ Tắc Thiên lên nắm quyền, Vương huyện lệnh cũng sợ teo râu. Nghe Võ hậu lập mưu giết Vương hoàng hậu, rồi tróc nã những kẻ liên quan, khá nhiều người họ Vương khác cũng đã bị liên lụy, Vương huyện lệnh nghĩ mình ở xa mặt trời chắc cũng không đến nỗi nào, không ngờ hôm nay phải giấu đầu vào bao bột trong kho lương, mồ hôi chảy ròng ròng như tắm.
Trong lịch sử chống quân tàu xâm lược, có lẽ đây là lần đầu tiên, quân dân Việt chiếm được thành Tống Bình, giết chết quan đô hộ. Tuy nhiên chiến công này lại tiếc thay không được nhắc tới trong các sách giáo khoa lịch sử. Thành Tống Bình sau này cũng là nơi chứng kiến các chiến thắng quyết định của Mai Thúc Loan (năm 714) và Phùng Hưng (năm 791). Chiến thắng của Đinh Kiến một phần cũng nhờ bà Võ hậu. Khi đó, bà Võ hậu đang mải mê tranh giành quyền lực nên việc phòng thủ ở An Nam cũng có phần lơi lỏng.
Sau khi làm chủ được thành Tống Bình, nghĩa quân lúc đầu chia nhau đi truy lùng quân tàu đang lẩn trốn, nhưng chẳng bao lâu lại chuyển sang truy lùng “chiến lợi phẩm”. Nằm trong kho lương, đầu ngập trong bột nhưng Vương huyện lệnh vẫn nghe tiếng chân thình thịch, tiếng la hét, ông biết rằng giờ phút cuối cùng của mình đang điểm. Bản năng giúp ông rút đầu ra khỏi bao bột, vùng chạy ra ngoài trời tối đen như mực, loang loáng ánh đuốc của nghĩa quân.
Bàng đại nhân vốn từ nhỏ thì học võ nghệ, lớn lên thì làm quan, chưa từng biết cày cuốc là gì, nay chui dưới đống cỏ khô, rơm khô nên bị nổi mề đay khắp mình, ngứa ngáy không thể tả. Chợt nghe nghĩa quân kéo tới, sợ họ châm cho mồi lửa thì thành con cua nướng rơm nên cũng vùng chạy ra ngoài. Ầm một cái, Bàng đại nhân tông phải một bóng ma trắng lốp, cả hai ngã xuống một cái hào và cùng bất tỉnh nhân sự.
Lối rẽ cuộc đời
Bàng Giải đại nhân từ từ hé mắt ra, thấy bên cạnh mình một bóng ma trắng lốp, toàn thân đau rát như vừa bị quỉ sứ dưới âm ty đánh bằng roi. Bàng Giải đại nhân đinh ninh đây đã là địa ngục rồi. Thực ra, bóng ma đó chính là Vương huyện lệnh, mồ hôi túa ra trong cơn sợ hãi đã khiến bột mì bám chặt vào râu, vào tóc, mặt mũi chân tay của ông. Cú va chạm trong đêm với Bàng Giải đại nhân khiến hai người rơi xuống chiến hào đêm qua cũng không chỉ để lại một ít bột mì dưới đáy hào. Cơn đau rát đó là do mề đay nổi đầy người Bàng Giải đại nhân (1), một cô thôn nữ đang đắp thuốc lên người ông.
Sáng nay, một số nghĩa quân đã tìm thấy hai người nằm bất tỉnh và tướng Đinh Kiến quyết định cho cáng họ về thuốc thang.
Bàng Giải đại nhân vốn là dân võ biền, tuy nhiên cũng biết chút đỉnh Nho, Y, Lý, Số. Trong sách Y có câu, “Nam bất ngoại trần bì. Nữ bất ly hương phụ”. Trước khi lên đường đi An Nam, Bàng Giải phu nhân có đeo lên cổ đại nhân một túi gấm, trong đó chứa toàn trần bì (vỏ quít khô, lâu năm) để tránh sơn lam chướng khí. Đại nhân không biết cái thứ thuốc xanh đen giã nhuyền từ lá và rễ cây kia là cái gì nên cũng hơi sợ. Hôm sau, đại nhân xin được giã nhuyễn túi trần bì đem theo để đắp lên người. Đám người Việt kia vốn không biết đại nhân là ai, tên gì bèn đặt luôn đại nhân cái tên lóng là Trần Bì.
Tin về thành Ung Châu bên đất tàu rằng thành Tống Bình với tường cao, hào sâu, cùng hơn bốn ngàn quân chính qui trấn giữ đã bị tiêu diệt hoàn toàn, Lưu Diên Hựu đã tử trận. Do đường xa cách trở, những tên lính tàu nào sống sót cũng đều bị bắt sống trên đường chạy trốn.
Tình cảnh Vương huyện lệnh cùng Bàng Giải đại nhân trở nên tiến thoai lưỡng nan. Bây giờ mà có trốn được về nước thì cũng phải án tử hình vì tội không giữ được thành, ít nhất thì cũng bị án tù mọt gông, vợ con còn bị liên luỵ, hết đường tiến thủ. Hơn nữa, đường xá xa xôi như thế, đi đâu cũng toàn là dân Bách Việt, có thoát đằng trời. Hơn nữa, cảm cái ơn cứu mạng của tướng Đinh Kiến, hai bại tướng tàu xin được cưu mang luôn, nhận nơi này làm quê hương. Họ có lẽ là những người tàu đầu tiên di cư qua nước ta.
Tướng Đinh Kiến mở lượng từ bi, khoan hồng cho hai bại tướng, và yêu cầu họ phải đổi tên làm người Việt. Bàng Giải đại nhân lấy luôn biệt hiệu Trần Bì làm tên, còn Vương huyện lệnh thì đang phân vân chưa biết chọn tên nào. Trần Bì (tức Bàng Giải đại nhân) liền bảo, ông họ Vương 王, hôm trước đầu ông dính đầy bột, trắng lốp là chữ bạch 白, chữ vương mà đội chữ bạch là chữ hoàng 皇; hơn nữa, hôm trước anh em ta nhờ ngã xuống cái hào mới được sống sót, cái hào cũng là chữ hoàng 隍, như vậy ông lấy họ Hoàng 黃 là hợp lẽ nhất. Trong thơ ca có hoàng hạc, ngoài đời có Hoàng Trĩ, như vậy há chẳng hay sao.
Sáng trăng em tưởng tối trời
Em ngồi em để cái sự đời em ra
Sự đời bằng cái lá đa
Đen như mõm chó chém cha sự đời
Vương huyện lệnh bị Bàng Giải (tức Trần Bì) đặt cho cái tên mới là Hoàng Trĩ, cũng ấm ức, chim cú trong lòng, bèn tìm cách trả đũa. Sau khi định thần, Trĩ bèn nói với Bì rằng, cậu với tớ cùng gặp nhau ở thành Tống Bình, cùng chạy trốngặp nhau trong kho lương thảo, cùng lăn quay gặp nhaudưới hào, lại cùng gặp nhau lúc được cứu sống, như thế chẳng phải là cậu với tớ có duyên với chữ Phùng hay sao (chữ Hán 逢 nghĩa là gặp). Hơn nữa, cậu làm đô đốc, thời trẻ từng nổi danh bằng hà bạo hổ (chữ Hán 馮河暴虎 nghĩa là lội sông bắt cọp), mà chữ bằng 憑 khi dùng làm họ đọc là Phùng, vậy cậu nên lấy tên là Phùng Giải hay Phùng Bì mới hợp lẽ.
Bàng Giải nghe nhắc chuyện tay không bắt cọp lấy làm tự đắc, mà không hiểu hết thâm ý của Vương huyện lệnh. (2)
Đối với vua quan nhà Đường (thật ra là nhà Chu) thì Bàng Giải đại nhân và Vương huyện lệnh (gọi theo thói quen thế thôi chứ thật ra chức huyện lệnh làm gì còn) xem như đã là liệt sĩ, ít nhất cũng phải là MIA (missing in action). Cả hai sợ nhất là kẻ nào thối mồm báo cáo rằng thật ra họ đang là tù binh (POW – prisoner of war), hoặc tệ hơn thế, đã đào ngũ qua phía Bách Việt thì coi như tèo.
Có đọc sử sách mới biết hiện tượng Hoa kiều di cư sang nước ta, lấy vợ sinh con, đã xảy ra từ thủa xa xưa. Bây giờ nghe nói đang có hơn 35 ngàn công nhân Trung Quốc đang làm việc ở Việt Nam, thế nào cũng có chú nối gót tiền nhân.
Bàng Giải đại nhân và Vương huyện lệnh được chấp thuận nhập tịch sang An Nam, mừng hết lớn, họ được yêu cầu lấy tên theo dân Bách Việt. Vương Phúc Trĩ còn đang băn khoăn thì Bàng Giải mới bảo nhỏ rằng chú mày còn suy nghĩ gì nữa, không đổi thì coi như chết chắc. Đó là chưa kể mai mốt đây nhà Chu thế nào cũng đem quân qua xâm chiếm An Nam, thì coi như chuyện đầu hàng của ông sẽ bị lộ tẩy. Lúc đó án chém sẽ treo lơ lửng trên đầu, nhà tan của nát là cái chắc.
Là người biết việc quân cơ, lại hiểu rõ tham vọng và giả tâm của triều đinh; Bàng Giải biết rằng nhà Đường (thật ra là nhà Chu) sẽ cất quân trả thù và tướng Đinh Kiến sẽ không cầm cự được lâu. Chi bằng đoạn tuyệt với quá khứ, mai danh cải tính, cùng vợ mới cưới là cô thôn nữ đắp thuốc dạo nọ, xuôi sông Hồng rời xa thành Tống Bình, tìm nơi xây tổ ấm. Thuyền tình của họ cập vào làng Đông Lỗ, một nơi chuyên trồng dâu nuôi tằm, thanh niên trong làng quanh năm dưới bộc trên dâu
http://www.caravanvn.net/forum/showthread.php?t=3767&page=4
___________________________________
Chú thích của gps
1. Hình như chứng bịnh này trong tiếng Anh gọi là hay fever
2. Trong sách Luận Ngữ, Đức Khổng Tử dùng bốn chữ bạo hổ bằng hà để chỉ kẻ hữu dũng vô mưu!!!.